Sự nổi lên của "Đệ Nhị đế quốc" Đế_quốc_Anh

Thám hiểm Thái Bình Dương

Nhiệm vụ của James Cook là phải tìm lục địa phương nam giả định Terra Australis

Kể từ năm 1718, việc đày ải đến các thuộc địa ở châu Mỹ là một hình phạt cho nhiều tội phạm hình sự khác nhau tại Anh, với khoảng một nghìn tù nhân được vận chuyển vượt Đại Tây Dương mỗi năm.[81] Sau khi để mất 13 thuộc địa, nước Ạnh buộc phải tìm một địa điểm khác thay thế và đến năm 1783 thì Chính phủ Anh quay sang các vùng đất mới được phát hiện tại Úc.[82] Bờ biển phía tây của Úc đã được người châu Âu phát hiện trong chuyến hành trình của nhà thám hiểm người Hà Lan Willem Jansz vào năm 1606 và sau này được Công ty Đông Ấn Hà Lan đặt tên là Tân Hà Lan,[83] nhưng không có nỗ lực thuộc địa hóa tại Úc. Năm 1770, James Cook phát hiện bờ biển phía đông của Úc trong một chuyến hành trình khoa học đến khu vực Nam Thái Bình Dương và tuyên bố rằng lục địa này thuộc về nước Anh, ông ta đặt tên cho khu vực này là New South Wales.[84] Năm 1778, nhà thực vật học trong hành trình của Cook là Joseph Banks đệ trình các bằng chứng cho chính phủ về sự thích hợp của vịnh Botany đối với việc thiết lập khu định cư hình sự và đến năm 1787 thì chuyến tàu đầu tiên chở tù nhân đã khởi hành, nó đến nơi vào năm 1788.[85] Đế quốc Anh tiếp tục vận chuyển tù nhân đến Úc cho đến năm 1840.[86] Nguồn xuất khẩu đem lại lợi nhuận cho các thuộc địa ở Úc đó là lông cừu và vàng,[87] chủ yếu là do các phong trào tìm vàng tại thuộc địa Victoria, khiến thủ phủ Melbourne của thuộc địa này trở thành thành phố giàu nhất thế giới vào thời điểm đó[88] và là thành phố lớn thứ hai, sau Luân Đôn, trong Đế quốc Anh.[89]

Trong chuyến hành trình của mình, James Cook cũng đã đặt chân đến New Zealand, vốn được nhà thám hiểm Hà Lan Abel Tasman phát hiện ra từ năm 1642. James Cook sau đó tuyên bố rằng chủ quyền của các đảo BắcNam thuộc về hoàng gia Anh lần lượt vào năm 1769 và 1770. Ban đầu, mối quan hệ giữa những cư dân Maori bản địa và người châu Âu chỉ giới hạn trong việc giao dịch hàng hoá. Người châu Âu tăng cường định cư trong suốt những thập niên đầu của thế kỷ XIX, với nhiều trạm mậu dịch được thành lập, đặc biệt là tại đảo Bắc. Năm 1839, Công ty New Zealand đã công bố kế hoạch mua những vùng đất rộng lớn và thiết lập các thuộc địa tại New Zealand. Ngày 6 Tháng 2 năm 1840, Thuyền trưởng William Hobson và khoảng 40 tù trưởng MaoriHiệp ước Waitangi.[90] Hiệp ước này được nhiều người cho là văn kiện sáng lập nên New Zealand,[91] nhưng lại có sự diễn giải khác nhau giữa các phiên bản tiếng Maori và tiếng Anh của văn kiện này[92] có nghĩa rằng nó tiếp tục là một văn kiện gây tranh cãi.[93]

Chiến tranh với Napoléon

Anh lại gặp thách thức trước nước Pháp của Napoléon Bonaparte, cuộc chiến này không giống như các cuộc chiến tranh khác từng xảy ra trước đó khi nó đại diện cho một tranh đua ý thức hệ giữa hai quốc gia.[94] Không chỉ có vị thế của Anh trên thế giới bị đe dọa: Napoléon từng đe dọa xâm chiến bản thân Anh, cũng giống như quân đội của ông từng thực hiện với nhiều quốc gia trên lục địa châu Âu.

Trận Waterloo kết thúc với thất bại của Napoleon.

Các cuộc chiến tranh Napoléon khiến người Anh buộc phải đầu tư một lượng lớn vốn và tài nguyên để giành chiến thắng. Hải quân Hoàng gia Anh phong tỏa các cảng của Pháp và giành được một chiến thắng quyết định trước một hạm đội Pháp-Tây Ban Nha tại Trafalgar vào năm 1805. Các thuộc địa hải ngoại cũng bị tấn công và chiếm đóng, bao gồm cả của Hà Lan do quốc gia này bị Napoléon sáp nhập vào năm 1810. Cuối cùng Pháp bị một liên minh các quân đội châu Âu đánh bại vào năm 1815.[95] Anh một lần nữa lại là bên hưởng lợi từ các hòa ước: Pháp nhượng quần đảo Ionia, Malta (mà họ lần lượt chiếm đóng năm 1797, 1798), Mauritius, Saint LuciaTobago; Tây Ban Nha nhượng Trinidad; Hà Lan nhượng Guyana và Thuộc địa Cape. Anh trả Guadeloupe, Martinique, Guiana thuộc PhápRéunion cho Pháp; JavaSuriname cho Hà Lan, trong khi nắm quyền kiểm soát đối với Tích Lan (1795 – 1815).[96]

Bãi bỏ chế độ nô lệ

Sự xuất hiện của cuộc cách mạng công nghiệp khiến hàng hoá được nô lệ sản xuất trở nên ít quan trọng đối với nền kinh tế Anh.[97] Với sự ủng hộ từ phong trào bãi nô Anh, Quốc hội Anh ban hành Đạo luật buôn bán nô lệ vào năm 1807, theo đó bãi bỏ việc buôn bán nô lệ trong đế quốc. Năm 1808, Sierra Leone được chỉ định là một thuộc địa chính thức của Anh cho các nô lệ được giải phóng.[98] Đạo luật Bãi nô được thông qua vào năm 1833, bãi bỏ chế độ nô lệ tại Đế quốc Anh vào ngày 1 tháng 8 năm 1834 (ngoại trừ St. Helena, Tích Lan và các lãnh thổ do Công ty Đông Ấn Anh quản lý, song những ngoại lệ bị bãi bỏ sau đó). Theo Đạo luật này, nô lệ được giải phóng hoàn toàn sau một khoảng thời gian từ 4 đến 6 năm "học nghề".[99] Và đồng thời chủ sở hữu nô lệ sẽ được chính phủ Anh bồi thường.